Bài nổi bật

Rễ phủ giữa dòng

1. Tôi lớn lên và lăn lộn với núi đồi từ khi chưa tròn bảy tuổi. Tôi thích leo núi và đu mình trên những sợi dây rừng để nhảy từmỏm đá nọ đến mỏm đá kia. Cũng thích lang thang một mình trên đồi trọc, nghe đất bạc màu cố vặn mình chắt chiu chút nhựa sống cho cây cỏ nhọc nhằn. Tôi thường theo mẹ đi hái thuốc.
 
Mẹ bảo đất càng cằn thì cây thuốc càng tốt. Tôi cũng đã từng theo cha đến bên những dòng suối hái rễ cây rừng. Cha bảo rễ cây mọc giữa dòng bao giờ cũng quý, nhất là những chùm rễ mọc trên mỏm đá chia đôi dòng nước. Đó là những chùm rễ rất kiên cường, nó không những giữ cho cây đứng vững trước sự xô đẩy của thác lũ mà còn che phủ cho tảng đá khỏi bị bào giũa dưới dòng chảy tưởng như êm đềm của con suối trong văn vắt kia.
Năm tôi mười bốn tuổi, người dài lêu ngêu, những đốt ngón chân, ngón tay lồi ra khúc khuỷu. Cha tôi bảo: “Hè này cha dẫn con sang ông Khào học sửa xe, biết được cái gì tốt cái ấy, sau này ném đâu cũng sống được con ạ!”. Rồi cha thở dài sườn sượt. Đời cha đã bạc đầu với núi với đồi…
Cha là giáo viên, nhưng vừa đi dạy được nửa năm thì có lệnh tổng động viên. Bấy giờ tôi còn chưa chui ra khỏi bụng mẹ. Cha đi biền biệt, hết chiến tranh chưa thấy về. Thị trấn miền núi nhỏ bé,heo hút vài mái nhà thi thoảng lại ồn ã tiếng gào khóc vì có giấy báo tử. Ngày cha tôi bất ngờ xuất hiện trước cổng, đen đúa, già nua, tôi sợ hãi thét lên rồibỏ chạy.
Phải mất đẫy một tháng, tôi mới cho cha bế ẵm, vỗ về. Sau đó, mẹ tôi lần lượt sinh thêm hai em gái nữa, một đứatai nghễnh ngãng, mũi phồng to như quả cà chua. Còn một đứa còi như cái rãi khoai, lúc nó hoài thai, mẹ tôi ăn rở bằng bấc đèn, đất vách, thậm chí cả ốc sên,vỏ mía.
Lúc đẻ ra, nó to bằng cái đèn hoa kỳ, được non một tháng thì không thở được nữa. Cha tôi gói chiếu vác nó lên vai mang ra đồng, chưa kịp đặt xuống đất nó giẫy nẩy lên khóc, tôi nhìn thấy nước rãi nó chảy đầy vai cha tôi. Cha ôm nó về, ngày ngày bắt cóc làm thịt giã nhuyễn, chắt nước cơm, lọc kỹ cho nó ăn, được chục ngày thì da nó bớt thâm. Cha gửi ba mẹ con cho bà rồi dắt tôi lên rừng. Cha bảo, đi hái ít lá thuốc về chữa bệnh cho mẹ.
Cái ba lô con cóc cha được phát khi đi biên giới giờ lại đè nặng trên lưng. Lưng cha gầy như cọng bàng giữa trời đông mà cái ba lô thì căng ních khoai khô, sắn khô, lạc rang, gạo rang, chăn chiên, màn, quần áo… cho tôi, hai bên hông còn đeo lúc lỉu cái bi đông nước, một cái xoong và một manh chiếu rách. Tôi đứng với cha, đầu vừa chạm đáy ba lô.
Lúc tôi bước ra cửa, mẹ cố bám vào mấy rẻ quạt trên đầu giường ngóc đầu lên gọi,giọng mẹ phều phào trong làn môi khô nứt nẻ. Mẹ giơ đôi tay vằn vện những mạch máu xám xịt khuờ khoạng lên má tôi, định nói với tôi gì đó nhưng không hé môi rađược, hai khoé mắt mẹ lăn dài hai giọt nước nhờ nhợ đỏ. Tôi trân trân nhìn khuôn mặt xám xịt quắt queo của mẹ, sụt sịt khóc: “Con ứ đi nữa đâu, con ở nhà với mẹ…”. Cha tôi trừng mắt. Tôi oà khóc, rúc đầu vào ngực mẹ, tay mẹ lẩy bẩy bấu quanh cổ tôi,ấp tôi vào lòng. Mắt cha trờn trợn, đêm hôm trước cha đã thủ thỉ bảo tôi, bà yếu rồi, không thể trông cả bốn mẹ con, con là con trai, lại lớn nhất nhà, con đivới cha. Tôi vừa nấc vừa đi, cha bế tôi đặt lên miếng gỗ buộc giữa khung xe đạp rồi đạp ngược về phía núi Vàng. Cha cắm cúi đi, mải miết đi, hình như cha khóc,tôi thấy một giọt nước văng vào má, rớt trên môi mằn mặn, chan chát.
 

 
 
Hai cha con tôi giấu xe vào bụi rậm dưới chân núi rồi đi bộ, leo qua bao nhiêu lần quèn, lang thang trong núi, trong thung suốt mười ngày, thì cha đào được vài loại củ và rễ, hái được một bó lá rừng. Cha cho tất cả vào một cái rọ đan bằng dây mơ đeo bên hông.
Cha bện dây múc bó lá cho tôi khoác sau lưng. Đó là lần đirừng lâu nhất và nhiều nhất của tôi. Sau này, mỗi khi có người đến xin thuốc,cha con tôi mới vào rừng. Cha tôi hái thuốc về cho chứ không bán. Cha bảo, câycỏ của rừng. Cứu được người là phúc phận… Mãi đến khi ba anh em chúng tôi đếntuổi ăn tuổi lớn, lương giáo viên của cha người ta trả bằng phân đạm, săm xe đạp,thậm chí một lô một lốc giầy ba ta cỡ đại mà cả nhà tôi không ai đi vừa, cha mớitìm đến những thầy thuốc trong thị trấn để rao bán thuốc.
2. Tôi nghỉ hè hôm trước thì hôm sau cha dắt sang nhà ông Khào xin cho tôi học sửa xe. Với tôi, ông Khào là một người đáng sợ. Cả thị trấn người ta mang ông ralàm ba bị để doạ trẻ con. Xung quanh ông người ta thêu dệt bao nhiêu là chuyện.Khi nói đến ông đều tỏ ra khinh miệt, rẻ rúng. Người ta chỉ đến nhà ông khi xe hỏng. Hoặc họ sẽ tìm đến ông khi có xác chết vô chủ nào đó trong thị trấn. Ông khâm liệm xác chết một cách cẩn trọng, say sưa, vừa làm vừa trò chuyện với họ như người một nhà.
Tôi dám chắc, chỉ cần tôi ở nhà ông một ngày là hôm sau bọn bạn cùng lớp sẽ chả mấy đứa dám chơi cùng tôi. Nhưng ý của cha tôi là ý trời, tôi chỉ làm theo chứ không được phép hỏi. Tôi chưa bao giờ thấy cha bình phẩm gì về ông. Nhiều đêm tôi thức khuya đọc truyện, cứ mười hai giờ đêm, từ phía nhà ông lại vang lên tiếng mõ lốc cốc. Tiếng mõ khi thưa khi nhặt, khi dồn dập, tức tưởi. Có lần, tiếng mõ kêu làm tôi tưởng như ông mangmõ ra đập cho đến nát tươm từng thớ gỗ, rồi có tiếng ông hát.
Ông vứt dùi mõ cộc xuống sàn nhà rồi hát, tiếng hát ông ổng như tiếng gào tiếng rú của thú hoang lạc bầy. Nhất là những đêm mưa mùa xuân, gió thổi xuôi chiều, tôi nằm trên gác xép, nghe mưa lâyrây phủ bụi trên mái giấy dầu, và tiếng ông hát, tiếng hát vừa như rên rỉ, vừa như gầm thét. Tôi cố lắng tai xem ông hát gì nhưng tôi chịu, tôi căng tai hết cỡ cũng không sao nghe được bất kỳ một âm tiết nào rõ rệt. Hát chán ông mang sáo ra thổi, rồi ông kéo nhị, ông gõ xèng… đủ mọi thứ âm thanh hỗn tạp, nó chỉ kết thúc khi ông mệt nhoài và thường là sau ba giờ sáng.
Tôi đã nhiều lần nhìn thấy ông Khào ngoài đường. Ông thường đội một cái mũ cứng kiểu quý tộc Pháp, mặc áo kẻ ca-rô, quần soóc, đi giầy đinh hoặc tông Thái Lan vẹt gót. Quần áo của ông cũ mèm, khâu vá chằng chịt, nhưng lúc nào ông cũng tỏ ra đường hoàng, đĩnh đạc. Tôi chưa dám nhìn thẳng vào mặt ông bao giờ, nếu có giáp mặt cũng chỉ cúi đầu cong đít chạy cho nhanh. Lúc hai cha con tôi đến cổng nhà ông, tôi thấy nổi da gà.
Nhà ông sát cổng chợ. Trước nhà treo lủng lẳng hai cái lốp xe đạp hỏng trên cây tre cụt ngọn mốc thếch. Cái sân chạt rộng mát dưới bụi trâm bầu, vừa làm chỗ uống nước chè vừa làm nơi sửa xe.Ấn tượng đầu tiên của tôi khi tiếp xúc với ông chính là tiếng cười nổ giòn như đại bác. Da ông đỏ, tóc bạc, hàm răng trên đã rụng gần hết, còn hai cái răng nanh dài ngoẵng như răng sói, nó làm môi trên của ông kệnh lên. Thấy tôi thithoảng liếc nhìn trộm, ông bảo:
– Cái thằng, muốn ông đánh chết hả! Mày ở với ông phải quen với cái răng của ôngnghe chưa, ông đếch ăn thịt người đâu mà sợ.
Rồi ông lại cười, tiếng cười trầm đục như tiếng mìn đánh đá.
Quán sửa xe của ông khá đông khách, ông làm việc luôn chân luôn tay. Thi thoảng có một vài khách đàn bà con gái đến, ông đưa họ lên gác hai nói chuyện, ăn ngô rang, khâu giúp ông cái áo bị tuột chỉ, đính hộ cái cúc quần tây… Những vị khá chấy chủ yếu là các bà buôn, phấn son bóng bẩy, quần là áo lượt. Có hôm tôi nhìn thấy một bà bước ra khỏi cửa còn quay lại giúi vào tay ông một nắm tiền, thơm chụt lên má ông một cái rồi hớn hở đi ra, mặt nở như miếng bóng bì mấy bà hàng xén treo lủng lẳng ngoài chợ. Tôi cúi gằm mặt, nhổ nước bọt vào miếng săm rồi rasức nạo. Ông Khào đến sát sau lưng vỗ vỗ lên vai tôi bảo:
– Nạo vừa vừa thôi, đủ để nó ăn keo thôi ông kễnh ạ!
Tôi lí nhí vâng rồi lấy miếng săm khác nạo tiếp. Tối ấy về nhà tôi không nói không rằng, cứ tưởng tượng thấy cái mặt bà khách lúc chiều mà lộn mửa. Khuya, hai cha con ngồi đóng than tổ ong, cha tôi hỏi:
– Hôm nay ông cho con làm nhữngcái gì
– Tập nạo săm ạ!
– Ừ, học dần dần, con sang đấyhọc sửa xe thì cứ chuyên tâm mà học, đừng nhìn ngang ngó dọc làm gì.
– Vầng!
Hai cha con tôi im lặng. Tôi thấycha nén cái khuôn than uể oải nặng nề, không giống mọi ngày.
Tôi học gần hết hè thì có thể làmcho một cái xe đạp hỏng chuyển động trở lại. Một chiều ông gọi tôi vào trong nhàbảo:
– Mày chịu khó quá, nhưng rồi saunày cũng chẳng dùng đến cái nghề mạt hạng này đâu con ạ. Ông biết cái gì ông sẽdạy mày bằng hết, từ nay mày không phải sửa xe nữa, ông dạy mày cái này.
Ông đứng lên, mở cánh tủ buýp phêlôi ra một cái hộp gỗ nhỏ, cẩn thận nhấc từng món đồ trong hộp bày lên bàn chotôi xem.
– Đồ nghề một thời oanh liệt củaông đấy. Ông sẽ dạy mày dần dần…
Mỗi ngày ông lôi ra một món đồtrong hộp, dạy tôi chạm khắc những đường nét hoa văn trên một khối đá xanh màtôi đoán ông đã mất rất nhiều công sức để mài cắt vuông vức và nhẵn nhụi như vậy.Tôi trầm trồ khen phiến đá đẹp, ông bảo ông đã mất hai đêm để mang nó từ núi vềđấy. Tôi say sưa ngắm nghía. Vài hôm sau, tôi thấy nhà ông Cung trưởng công anhuyện kêu mất hai cái chân chậu cảnh bằng đá khối Thanh Hoa.
 

 
Học việc với ông Khào một thờigian tôi mới hiểu con người ông thật phức tạp. Thời trẻ, ông vốn là một nhà địachất có tiếng ở vùng Đông Dương. Ông về Ba Trại khai thác than đá. Than ở vùngnày không nhiều nhưng là loại than đá quý, nằm ở độ sâu hàng trăm mét. Lần đầutiên đến đây, ông đã bị những tảng than đá nguyên khối đen óng, trong suốt húthồn. Ông biết đó không phải là thứ than đá bình thường.
Được ông chủ mỏ ưu ái nên ông tậndụng khoảng thời gian rảnh rỗi để thực hiện đam mê của mình. Ông tỉ mẩn chạm trổ,khắc đẽo, cuối cùng đã làm được một bông hoa hồng và một chiếc chân đèn bằngthan đá trong suốt, có thể sáng lấp lánh trong ánh trăng. Bông hồng và cái chânđèn đã làm thay đổi cuộc đời ông. Từ một nhà địa chất, ông đột nhiên trở thànhnhà điêu khắc, được về chính quốc giới thiệu những tác phẩm độc đáo của mình, vànhất là ông đã có cơ hội được gặp gỡ, trò chuyện với quan toàn quyền.
Đời ông gần như đã trở nên huyhoàng khi quan toàn quyền ngỏ ý muốn ông khắc một bức tượng bằng thứ đá kỳ lạ ấy.Ông hì hụi làm, say sưa làm, làm quên ngày quên tháng, đó sẽ không chỉ là mộtbức tượng đơn thuần hay một tác phẩm nghệ thuật mà hơn thế, nó sẽ là bệ phóngcho tương lai huy hoàng của một anh chàng tư sản thuộc địa trẻ tuổi. Khi ônghoàn thiện xong được một bên mắt bức tượng thì xảy ra sự cố. Ông chủ cuốn gói vềPháp, các đồn điền xung quanh cũng vội vã thu gom tất cả mùa màng của vụ làm ăncuối rồi rút đi. Khu mỏ bị bóc xới ngổn ngang, nằm trơ trụi giữa ba quả đồi trọclốc.
Đêm trước khi chuyến tàuhàng cuối cùng chở chiến lợi phẩm đi, bọn chúng cào tung con đập ngăn lũ phíathượng nguồn, nước từ trong lòng núi xối xả đổ về, cuốn vào hầm mỏ sâu tronglòng đất toàn bộ cư dân Ba Trại và vô số nông phu người Việt chen chúc trong cáclán trại xung quanh, vùi lấp mọi dấu tích của mỏ than quý trong mênh mông nước.Ông may mắn thoát chết cũng bởi vì ông còn chưa kịp hoàn thành xong bức tượngtên toàn quyền bằng than đá. Bức tượng ấy đã cứu sống cái mạng người bèo bọt củaông nhưng đã cướp đi bao nhiêu máu thịt đồng bào ông. Ông đã ném nó vào đườngray khi đoàn tàu rời ga Đồng Cỏ lao đi. Nhìn những mảnh vỡ vụn nát tua tủa toéra xung quanh găm vào đất những mũi kim sắc lạnh mà tưởng nó đang ném vào ông cảmột quả bộc phá khổng lồ…
3. Em gái giáp tôi bị nạn. Nó mười tuổi, sáng nào cũng dậy từ khi sương mù cònquây đặc quanh ánh đèn leo lét của mấy bà buôn rau ngoài chợ, đứng bên rìa quốclộ chờ những chiếc ô tô chở rau cải bắp từ mạn trong ra dừng lại đổ hàng, rìnhđể nhặt những lá rau rơi mang về cho cả người cả lợn ăn. Nó mải nhặt một lá raucòn lành nguyên vừa văng ra nên bị gió cuốn vào gầm xe. Một bàn chân nó  bẹp dídưới lốp ô tô. Nhà có gì đáng giá đều mang đi cầm cố để đưa em tôi đi bệnh viện.Bố tôi nằm rịt trên Hà Nội với nó, một mình mẹ tong tả buôn ngược bán xuôi kiếmtiền gửi lên.
Hai anh em tôi ở nhà ăn quanh ănquẩn những gì kiếm được. Tôi đã có thể kiếm tiền bằng nghề sửa xe đạp, ông Khàobảo tôi cứ đi học về thì sang làm với ông, làm được cái nào lấy công cái ấy, ôngcho hết. Thi thoảng tôi thấy ông lôi một món đồ quý ra bán, ông bảo ông già rồi,không cần làm nữa, bán hết đi ăn rồi chết lúc nào thì chết. Ông thường bán đồlúc sáng sớm hoặc tối mịt. Tôi ở với ông mãi rồi quen, tôi không thích ông nhưngkhông còn sợ ông nữa.
Dù sao tôi cũng chịu ơn ông, ônglấy công dạy tôi học nghề chỉ bằng vài quyển sách cũ in tiếng Pháp trong tủ sáchcủa cha tôi, những quyển sách mà với tôi nó chẳng có nghĩa lí gì. Khách nhà ôngcũng lạ, nhiều bà hôm nay vào vá săm, mai lại đến bơm xe, ngày kia lại vào căngxích, tra luyn… họ để xe cho tôi làm rồi lên gác với ông. Mỗi khi chủ khách đãlên gác, ông rút cái thang tre bỏ lên trên và dặn tôi, ai hỏi thì bảo ông đivắng. Nói chuyện chán chê ông mới thả thang trèo xuống, có hôm khách ở đến tậnchiều mới về.
Hôm ấy, khách đông, tôi hì hụilàm đến tận khi phố xá loang lổ ánh đèn mới thu dọn đồ nghề. Bước vào trong cửa,tôi thấy ông ngồi thõng thượi trên bậc thang dưới cùng, cái thang gỗ đã mòn vẹtbám xiêu bám vẹo vào lỗ cửa trên gác xép. Ông phều phào bảo tôi:
– Mày đỡ ông lên với, ông đauquá!
Người ông nặng trình trịch, nhũnnhư bún. Sức thanh niên hoi như tôi phải hì hục đến mươi phút mới lôi ông lênđược. Căn gác xép nhỏ bé, leo lét ngọn điện đỏ quạch. Tôi phải khom người đểđứng lên kéo ông vào chiếu. Chỗ nằm của ông gọn gàng ngăn nắp, mấy cuốn sáchtiếng Pháp của cha tôi được bó cẩn thận bằng lạt giang kê ở góc đầu giường, cạnhmớ chăn gối thoang thoảng mùi hôi hôi khen khét của thuốc lào. Đặt ông nằm ngayngắn trên tấm chiếu mỏng đã xơ mép cói, nghe tiếng thở yếu ớt của ông, tôi khẽhỏi:
– Ông đau ở đâu, có phải gọi bácsĩ không?
Ông bật tiếng cười khùng khụctrong cổ họng lẫn với tiếng nói phều phào:
– Mày kệ mẹ ông, cái thị trấn nàyđếch có thằng bác sĩ nào chữa được cho ông đâu, ông nằm một tí, mai ông khỏi.Mày đưa ông cái ống bơ trong kia. Tôi lấy cho ông cái ống bơ, trong đó là thứ lácha con tôi vẫn đi hái về bán, mỗi khi tôi bị đi đái dắt mẹ thường đun cho tôiuống. Ông quờ tay nhúm một nhúm cho vào ấm chuyên rồi bảo tôi đổ nước phích vào,để đấy cho ông. Cất ống bơ lá vào chỗ cũ, tôi vô tình nhìn thấy trong bóng tốikhoang khuếch lố nhố bao nhiêu là tượng đá xếp chồng đống lên nhau.
Tôi cầm lên một bức ngoài cùng,đó là bức tượng người phụ nữ không có mặt, thân tượng thủng một lỗ to huếch hoác,mài giũa trơn bóng. Tôi liếc nhanh qua, hình như tất cả đều na ná nhau, chạm trổxiêu vẹo vụng về, không bức nào có mặt, cái thì cụt đầu, cái thì chỉ có tóc, cáithì hình chữ nhật, hình lục lăng, hình tam giác.
– Muộn rồi, mày về chả có mẹ màymong. Mai đi học về sang ông luôn nhá!
Tiếng ông làm tôi giật mình. Tôikhẽ vâng rồi tụt xuống thang.
Những bức tượng không rõ hình thùcứ ám ảnh tôi. Trong góc tối hun hút của cái gác xép thấp lè tè ấy còn có baonhiêu điều bí ẩn. Con người ông càng lúc càng khiến tôi tò mò. Đêm hôm ấy tôigần như không ngủ, tôi chờ xem có tiếng mõ hay tiếng hát phật phờ của ông vọngđến không, nhưng bóng đêm huyễn hoặc quanh tôi chỉ chi chít những âm thanh lạoxạo của loài dế và thi thoảng một vệt âm thanh sắc lạnh của còi tàu rít lên rồibiến mất.
 

 
4. Mẹ tôi đi chợ về nằm vật lêngiường khóc. Bà tôi ngồi một bên, cầm tay mẹ tôi xoa bóp rồi kéo ra cho khỏi cogiật. Mẹ tôi vốn yếu thần kinh, chỉ nhìn thấy máu đã ngất xỉu, mẹ cũng khôngchịu được những cảm xúc mạnh, mỗi lần gặp chuyện đau buồn, chân tay mẹ lại coquắp như người mắc bệnh động kinh. Bà bảo tôi:
– Mày sang hàng xóm vay bò gạo vềnấu cháo. Mẹ mày nhịn từ qua đến giờ, kiếm được đồng tiền lại mất sạch rồi.
Tôi luống cuống cầm rá qua ba bốnnhà rồi cũng vay được non bơ gạo. Mẹ tôi đạp xe đi buôn cá khô suốt từ hai giờsáng đến tận khuya mới về, sáng ra chợ đong được hai bơ gạo, bỏ vào làn rồi mớimóc túi trả tiền thì tiền đã không cánh mà bay, áo mẹ rách một vệt dài. Bà hàngxáo xăm xăm xói xói la làng, chửi bới, rủa xỉ, giằng giật đùm gạo khỏi tay mẹ cứnhư thể mẹ vừa cướp của bà ta.
Tôi vay gạo về đến ngõ thì gặpông Khào, mặt hừng hực như lão đồ tể, sặc sụa mùi rượu, ông chắn trước mặt tôi,giúi cho tôi một cục đen đen bảo:
– Mày bỏ vào nồi cháo cho mẹ mày,cao đấy, ăn cái này lại sức nhanh lắm.
Thấy tôi có vẻ sợ, ông dí ngóntay vào đầu tôi chửi:
– Tông sư cha mày, ông thương màyông cho, mày tưởng ông cho mẹ mày ăn thuốc độc à!
Mẹ tôi nằm lả ra trên tay bà,toàn thân nhũn nhượi. Tôi cố cạy răng mẹ rót từng thìa cháo. Môi mẹ khô trắng,lật bật run. Cái lưỡi gần như cứng đơ, phải cố lắm mẹ mới khẽ cử động để nuốtnước cháo. Hai bên mắt mẹ lăn dài hai giọt nước đục nhờ.
Cha tôi bồng em về, nó bị cưa mấtmột chân. Lưng cha đeo thêm một ba lô sách cũ. Ở Hà Nội, nhờ mấy người bạn chiếnđấu ngày xưa giúp đỡ, cha vừa chăm em, vừa đi mua giấy loại về bán, đó là nhữngcuốn sách cha nhặt nhạnh chọn ra sau mỗi mẻ hàng. Cha tính bỏ nghề dạy học đibuôn nhưng mẹ không cho. Tài sản quý nhất của cả nhà tôi chỉ là cái danh thầygiáo của cha. Nhà tôi lẽ ra cả nghèo lẫn hèn nhưng nhờ cái danh thầy giáo màchúng tôi chỉ nghèo chứ không hèn.
5. Cha đi dạy trên trường về,bươn bả trồng sắn trồng khoai. Mẹ tôi mở một mẹt hàng bán mấy thứ đồ lặt vặt,vài cốc nước chè xanh, mấy cái kẹo dồi, bao thuốc lá Sa Pa, sau rồi thêm ít sáchcũ của cha, cái kim, sợi chỉ, bao diêm, bấc đèn… Tôi vẫn sang ông Khào sửa xekiếm thêm tiền, cứ ba bốn buổi chiều là tôi gom đủ cho mẹ đong một bơ gạo. ÔngKhào tranh thủ nhồi thêm cho tôi cách chạm trổ một bức hình lên đá. Hôm tôi làmđược bức truyền thần cho ông chủ tịch xã, không biết ông ta cho bao nhiêu tiềnnhưng ông Khào đãi tôi một bữa thịt nạc rim với cơm trắng thơm phức. Đó là lầnđầu tiên trong đời tôi được ăn một bữa ăn kỳ diệu và ngon lành đến thế. Thấy ôngngắc ngư cười trong hơi men say lễnh loãng, tôi đánh bạo bảo:
– Ông dạy cháu làm tượng đi, cháuthấy ông làm nhiều tượng, ở trên gác ấy…
Ông cười khành khạch, cười nhưngười bị ma làm. Ông bảo:
– Tông sư bố mày, máu sớm thế hảcon… Để ông xem cái chim mày to bằng nào rồi hử…
Tôi đỏ mặt cúi gập người xuốngtránh khi ông sắp sửa thò tay vào đũng quần tôi. Ông ngả người ra cười, tôi ngheông cười như người ta nấc. Hàm răng rụng gần hết của ông phơi ra hốc miệng đenngòm. Giọng ông phều phào, mắt ông đùng đục, mũi ông phập phù phập phù. Ông kểcho tôi nghe về những bức tượng…
Sau cái ngày người Pháp bỏ đi,ông dật dờ bên hồ bao nhiêu lâu ông cũng không biết. Xung quanh ông, bầu trờilúc đen thẫm như than, lúc đỏ quạch như máu. Ngày cũng như đêm, trên mặt nướclênh lênh loang loang, ông thấy bao nhiêu là người bay lượn, nhảy múa, gào thét,giẫy giụa. Mỗi khi trở trời, nước dưới lòng hồ cuộn lên đen đặc mầu than lẫn vàivệt đỏ máu người. Ông nhặt đá nhặt đất làm một túp lều bên bờ hồ để ở, đêm nàocũng lũ lượt khách đến uống nước chè. Ông kiếm củ sen về thả, chả bao lâu senlan kín mặt hồ. Đêm đêm ông lại thấy người ta nhảy múa trên những đài sen, tiếnggào thét ít dần, có đêm ông nghe thấy tiếng hát nỉ non…
Rồi một đội nữ thanh niên xungphong về xây dựng nông trường. Núi đồi thay da đổi thịt. Khi cuộc sống ngày thêmkhấm khá, máy cày máy kéo reo rôm rả trên khắp các sườn đồi cũng là lúc các côhết tuổi thanh xuân, ai cũng giật mình thèm làm mẹ… Ông thấy tội thân cho họ,ông vỗ về họ, chăm sóc họ, nhưng rồi cứ cô nào bụng lùm lùm là chuyển đội sảnxuất. Họ đến dồn dập vội vàng, họ đi đột ngột bỏ ông trơ lại một mình. Có lần,vô tình ông gặp được một người đàn bà mang con đi chơi. Ông sững người trân trânnhìn đứa bé, chưa kịp hỏi gì thì người đàn bà ấy đã vội quỳ dưới chân ông xinông đừng nhận con, con ông đang yên ổn học hành, đang hãnh diện về người cha làmột anh hùng trong tưởng tượng của cả hai mẹ con nó. Ông không biết nói gì, chỉthở dài nhìn trời, nhìn đất, chỉ thấy khoang khuếch cái màu than đen ngòm lẫnvài vệt đỏ ngầu như máu. Về nhà, ông mang đá ra ghè-mài-đẽo- giũa để cho ra mộtmụ đàn bà. Những bức tượng nối tiếp nhau thành hình. Nhưng không cái nào làm ôngthỏa mãn…
Ông cứ chạm, cứ khắc mãi miết chođến khi bải hoải nhận ra trong nhà không còn một hạt gạo. Ông xếp những bứctượng vào một góc, lếch thếch vào chợ kiếm ăn. Hóa ra kẻ chợ mười phần thì đếnchín phần rách rưới như ông. Ông đột nhập vào những tòa nhà bê tông cốt thép,chọn cái gì quý giá mang đi…
Kể đến đây, ông Khào đứng lên vớitay vào hốc cột. Ông giơ trước mắt tôi một thanh thép mảnh làm từ chiếc nan hoaxe đạp đã mài giũa nhằng nhịt:
– Nó có thể mở được tất cả cácloại khoá đấy. Bần cùng, ta phải sống đã, rồi làm gì thì làm.
Ông Khào nói bằng giọng trầm buồn,thoảng như gió. Ông lôi ra từ góc tủ một ổ khóa to, nháy mắt với tôi rồi lùathanh thép vào lỗ khoá. Những ngón tay ông chầm chậm uốn dẻo, mắt ông nhíu, taiông nghiêng sát vào ổ khoá lắng nghe. Tạch! Ổ khóa bật. Ông hất hàm với tôi thầmbảo, mày thấy chưa, rồi nhếch cười đứng lên dắt chiếc chìa khóa vạn năng vào hốccột tối hun tối hút…
6. Tôi vào học lớp mười. Cha tôingã bệnh. Các bệnh viện lắc đầu trả cha tôi về, mẹ tôi bán cái xe đạp Thống Nhấtvà cái mâm đồng tổ tiên để lại rồi lên Xích Thổ xin thuốc của người Mường. Họcho một bì thuốc, nhưng bảo mẹ tôi phải tìm lấy cho được cái dây tơ hồng mọctrên cây vả trong rừng sâu, mọc giữa dòng suối thì càng tốt. Phải có dây tơ hồngtươi sắc cùng thì thuốc mới có tác dụng. Mẹ tôi nước mắt lưng tròng. Tôi quỳxuống xin:
– Con lớn rồi, con đi được.
Tôi đi. Sương mù phủ kín trênđỉnh Quèn Thờ. Ánh mắt héo hắt của mẹ bên cánh cổng tre xộc xệch còn bám mãi saulưng tôi. Ra khỏi thị trấn, tôi thấy ông Khào đứng bên đường, ông lao vào tôinhư một con gấu làm tôi giật mình. Ông chìa đôi cánh tay chi chít sẹo về phíatôi, nói trong hơi thở gấp gáp:
– Ông đi với mày. Ông già nhưngcòn khỏe…
Giọng nói của ông làm tôi bậtcười cả ra lỗ tai. Chúng tôi lặng lẽ chui vào sương giá. Bấu vào những mỏm đáxám xịt để đi. Tinh mơ ngày thứ hai, tôi trượt chân từ những sợi dây rừng rơixuống suối. Loài dây leo bò lan khắp rừng nhưng chỉ cần một sợi, khi bị đứt lìakhỏi gốc, chúng ải dần và mục ruỗng bên trong, tôi đã vô tình bấu vào đó để đusang ngọn cây vả bên kia suối, nơi có những sợi tơ hồng lả lướt, xõa sượi. Tôichới với giữa dòng chảy cuồn cuộn của con suối đang đổ thác về xuôi, may mắn,tôi quờ được một sợi rễ cây vươn dài ra giữa dòng nước ngầu bọt, bò lên một mỏmđá.
 

 
Tôi phủ phục trên bộ rễ cây đangphủ kín phiến đá giữa dòng nước đục ngầu, quá trưa mới tỉnh dậy. Ông Khào ngồimột bên, cởi trần trùng trục, bộ quần áo khét đặc mùi thuốc lào của ông đangquấn quanh tôi. Bên cạnh tôi, một bó tơ hồng tươi đã được bọc cẩn thận lẫn trongnhững cành lá vả đang rỉ nhựa. Ông đút cho tôi miếng cơm nắm bọc trong lá chuốikhô, bàn tay run lẩy bẩy và khuôn mặt ông nở ra niềm sung sướng trẻ thơ.
Hai ông cháu ra đến đường mòn dẫnvào thị trấn thì trời đã nhá nhem. Ông Khào dừng lại đặt bàn tay hộ pháp lên vaitôi nói:
– Về lo thuốc thang, khi nào chamày khỏi thì sang ông dạy tạc tượng.
Tôi bước thấp bước cao, vừa bướcvừa ngoái lại nhìn cái bóng xù xì của ông Khào phía cuối đường. Một vài ngọn đènheo hắt không còn rọi đủ bóng ông nữa. Trời đất thẫm dần.
7. Tôi vừa đun thuốc cho cha vừađọc sách. Tiếng cha thở nặng nề như kéo đá. Đêm đông đặc quánh, càng gần về sáng,sương muối xuống nhiều càng buốt. Mẹ tôi đạp xe đi Cồn Hải mua hàng chưa về. Haiđứa em tôi đang rúm rít góc giường. Trong nhà trống huơ trống huếch. Miếng cótép ngoài cửa sổ lật bật vì gió. Tôi cời chậu than sưởi dưới lưng cha, rồi đứnglên… Đêm đen thẫm. Tiếng chó sủa dập dồn ngoài đường cái làm tôi nhớ ông Khào…
Cha tôi nằm bày bạy trên giườngthi thoảng nước mắt trào ra giàn giụa trên má. Bây giờ cha đang ngủ, tiếng ngáynặng nề tức tưởi, hình như cha tôi vừa ngáy vừa nấc. Bắc siêu thuốc lên, chắt rabát rồi đặt lên bàn cho cha, tôi khẽ gấp quyển sách đút vào đầu giường, rón réntrèo lên gác xép lấy thứ đồ vật mà tôi giấu kĩ trong khe tủ, dắt vào cạp quần,tụt xuống thang ra đường bằng lối cửa sau.
Cha tôi sừng sững giữa cửa:
– Mày đi đâu hả con? Mày…
Tôi lúng búng. Cha rệu rã đổngười vào cánh cửa, mắt cha vằn lửa và đôi môi như dính bết vào nhau. Tôi kịpgiơ vai đỡ cha khỏi ngã phịch xuống đất nhưng không ngăn nổi tiếng thở của chahắt xoáy vào mặt tôi như một cơn lốc tuyết. Tôi loạng choạng đỡ cha về giường,chiếc chìa khoá vạn năng của ông Khào đã nằm gọn trong tay cha lúc nào. Cha tôiôm ngực nói trong cơn thở dốc:
– Nghèo cho sạch… rách cho thơm…Con giết cha đi rồi muốn làm gì thì làm!
Tôi gào lên trong bóng đêm đặcquánh, ôm chặt lấy cha. Mẹ tôi vẫn chưa về. Lò than sắc thuốc của cha tua tủaném vào mắt tôi những chùm xạ quang rậm rịt như chùm rễ cây rừng giữa dòng suốimặn đắng đang cuồn cuộn chảy…

Xem thêm đề xuất

Cafe âm nhạc 12h – Mùa hè

RadioVn.Com – “Đẹp như ánh bình minh bừng lên giữa đêm tối …Đẹp như cánh đồng …

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *