Truyện đêm khuya vov2 – Nhân vật K – một cái tên phiếm chỉ, là gương mặt đại diện cho bao người có chung một nỗi niềm: Đi tìm giấc mơ để được sống là mình, nhận ra khuôn mặt thật của mình, của người. K đã sống trong sự ám ảnh, hoang hoải về kiếp người, càng hi vọng đổi thay thì gã lại rơi vào bi kịch của đời sống lắm bon chen và mỏi mệt….
Ký ức buồn ập đến thật nhanh chóng và bất ngờ. Nhưng dù nó có choán lấy gã thì cũng chỉ là trong chốc lát, bởi lẽ gã lại nhanh chóng bị cái cà vạt tím lôi lại thực tại.
Bây giờ khác rồi, không thể thôi việc vì không thể thôi sống, không thể thôi kiếm tiền trong khi lũ con còn chưa thành niên. Về đến nhà, chúng nó há hoác mồm nhìn bố nhìn mẹ đòi ăn, rồi bảo học phí chưa đóng, rồi quần chật quá rồi, vợ thỏ thẻ tháng này tiền điện leo lên đến đỉnh cột điện rồi anh ạ. Không có cà vạt tím thì đừng đi làm, sếp đã bảo thế. Nhưng có cà vạt lại tím nhờ nhờ thì đi làm cũng như không đi làm, tự gã bảo thế.
Đến công ty, nhìn mặt mấy tên trong Tổ kiểm tra tác phong văn phòng đứng lởn vởn giữa sảnh chính mà chán. Trước mặt K. là một gã trai áo quần xộc xệch bị Tổ kiểm tra chặn.
– Tại sao mặt lại buồn thế?
– Vợ bỏ.
– Bỏ thì bỏ ở nhà, không phải bỏ ở công ty. Nào, cười lên!
Gã trai cười.
– Tươi nữa lên!
Gã trai cười tươi.
– Thôi, cho qua.
K. đi tới, họ không hỏi gì. Chắc nể mặt “anh già”, dù cà vạt gã thắt không được đúng kiểu, hơi xộc xệch.
Minh họa: Văn Nguyễn
Đeo cà vạt đã là điều khó chịu, thắt cà vạt lại là cực hình. K. không sao thuộc cách thắt, nào ấu đơn, ấu đôi, nào cánh phẳng, cánh lõm. Thành ra, gã nhờ bạn bè thắt một lần, sau đó tháo chỉ cần nới ra, thắt chỉ cần choàng vào cổ, thít vào. Về nhà, gã treo cà vạt lên giá, để cái mũ lên trên, lúc nào trên cái giá treo quần áo cũng như có một thằng cha thắt cà vạt đang đứng đó, cười cười nhìn gã.
Thỉnh thoảng K. đi qua, nhìn “thằng cha” đó, gã cười khẩy: Chú mày đấy à? Vẫn sống à?
Hôm sau, sau giờ làm, gã quyết định đổi phương thức tìm tòi. Dãy phố sáng choang với đầy những cửa hàng như nhau thì chỉ có những mặt hàng giống nhau, nguyên lý ấy chẳng phải đã ghi đầy trong sách? Vậy ta phải đi tìm tại những cửa hàng ở xa nơi vốn có những cửa hàng.
– Có cà vạt tím không, cô?
– Có.
Đấy, quá tốt. Tư duy mới mẻ sẽ dẫn đến kết quả mới mẻ.
– Cho xem nào?
K. cầm cái cà vạt tím cô bán hàng đưa cho, thấy thất vọng nặng nề. Cũng là tím, nhưng nó… thế nào ấy.
Buổi tối, K. tìm đến ông bạn họa sĩ. Này, thế nào là màu tím? Gã hỏi. Đúng giọng một ông nghiên cứu viên. Ông bạn lôi hộp bột màu ra, trông đây, màu xanh dương ngoáy với màu đỏ, tím đấy! A, a… K. gật gù. Còn ông muốn chính xác như máy tính, thì đây, C:90, M:100, cứ thông số này đem xuống nhà in, họ khắc in cho ông đúng màu tím. Cái thằng tím này rất buồn cười, bình thường trên bảng màu gốc, các màu tương phản không thể đi cùng nhau, nhưng vàng với tím là ngoại lệ, tương phản mà lại đi được với nhau, lại đẹp nữa, thế mới lạ! Thế có nghĩa là để đẹp trai, tôi cần sắm một cái sơ mi màu vàng? K. phá lên cười.
Đêm, K. mơ thấy mình mặc một bộ đồ màu vàng và thắt cà vạt tím. Không thể mê được, gã nghĩ khi tỉnh dậy giữa đêm. Gã ngồi trong giường, nhìn cái đình màn, lẩm bẩm: Lý thuyết gì mà kỳ quặc? Hay thằng họa sĩ kia xỏ mình?
Già nên hay đi tiểu đêm. Trong bóng tối mờ mờ, K. đi ngang qua cái giá treo cà vạt, thấy dường như “thằng cha” đội mũ đeo cà vạt đứng đó nhe răng cười gã. K. cười lại, bảo: “Đứng yên đấy, mai đi làm mày đi cùng tao”. Đột nhiên, “thằng cha” không đứng yên, nó cựa quậy, rồi bảo: “Đi tìm làm quái gì cho mất công mất sức. Sao ông không thể giống như người ta?”. Gã bảo: “Phải đi tìm chứ, tao là tao, tao chán mày lắm rồi”. Nó bảo: “Thôi, hay để tôi đi tìm ông? Ông tìm tôi, tôi tìm ông, ha ha ha ha… Chúng ta sẽ chạy vòng quanh tít mù”. K. đưa tay thít một phát, cái cà vạt dúm lại, gã bảo: “Im mồm!”.
K. vẫn không bỏ ý định đi tìm. Cuối giờ làm, gã lại lang thang tới các con phố mà chưa bao giờ gã tới. Nhờ có cuộc truy tìm cà vạt mà gã biết được thành phố của gã đầy ngõ ngách, đầy bất ngờ, nhiều vẻ đẹp, nhiều vẻ xấu khó tưởng tượng nổi. Nhưng càng đi, có vẻ như cái thằng cà vạt ban đêm nói đúng, nó chạy trốn. Cà vạt cứ lớn dần lên trong đầu gã, lúc nào gã cũng thấy dường như nó ở đằng sau lưng mình, trốn mình, hay đuổi mình.
Đêm hôm đó K. lại thao thức. Gã chợt nhớ đến cái cảnh khốn khổ mấy tháng trời. Mấy tháng lang thang từ sáng đến chiều theo danh mục đã đánh số thứ tự trong tờ quảng cáo tìm việc làm. Vừa đi, gã vừa nhớ đến nét mặt của mụ vợ và lũ con. Phải là người đã từng nhìn thấy quyển sổ tiết kiệm teo dần như miếng da lừa thì mới hiểu được tâm trạng gã lúc đó. Sợ đến nóng bụng. Thỉnh thoảng nghĩ tới “nó” lại ran ran trong bụng, vì miếng da lừa của gã lại bé hơn của nhiều người. Vợ gã bảo, còn may là có, nhiều nhà còn không có. Trong đầu người đàn bà, phép so sánh là môn đại số cao cấp nhất, chứ không phải tích phân hay vi phân. Nhưng nó đúng, gã cay đắng nhìn nhận khi mụ tiếp lời, bảo giá mà ngay từ đầu ông đừng làm khoa học.
Một buổi sáng đẹp trời, K. bước chân vào một tòa nhà cao tầng, gõ cửa một công ty. Một căn phòng to, mấy chục cái máy tính đặt dọc theo ba bức tường, nhân viên đang gõ máy rào rào. Một cái bàn to đặt chính giữa, trên mặt bàn cơ man không biết bao nhiêu loại báo, vây xung quanh là chục nhân viên mắt cắm vào tờ báo, tay lăm lăm cây bút đánh dấu.
Tiếp gã là một người mệt mỏi, đôi mắt thâm quầng, còn rất trẻ.
– Đã từng nghiên cứu khoa học nhiều năm, như vậy rất nhiều khả năng đọc và lọc, tầm chương trích cú, tốt – ông chủ trẻ nói sau khi đọc lý lịch của K. – Nhưng… hơi nhiều tuổi – hắn nhìn K, lịch sự và thẳng thừng nhận xét.
Ông chủ mà, K. nghĩ, có quyền ấy. K. là người biết điều, nên chỉ gật gù. Giá mà trước kia thì chắc cũng… khó chịu. Nhưng bây giờ, miếng da lừa đang teo…
– Vâng, hơi nhiều tuổi. Nhiều kinh nghiệm, như củ gừng ấy – K. nói.
Ông chủ trẻ gật gù. Có vẻ thích gã rồi. Bắt đầu giải thích: đây là một công ty dịch vụ thông tin. Nếu có một công ty hay một địa phương nào đó có nhu cầu biết thiên hạ nói tốt hay nói xấu bất kể điều gì về mình trên báo chí, kể cả quảng cáo phản quảng cáo, thì công ty này ký hợp đồng cung cấp tin chi tiết: Ngày ấy, trên những tờ báo ấy, có những thằng nào khen ông chê ông, liệt kê và bình luận. Rõ chưa? Rõ. Giờ làm việc bắt đầu từ 5 giờ sáng.
5 giờ? K. tá hỏa. Cựu nghiên cứu viên sợ hết hồn, vì gã chuyên thức khuya dậy muộn. Đêm yên tĩnh mới là lúc gã viết.
Nhưng 5 giờ thì 5 giờ, sớm cũng phải dậy. Gã phát hiện cái công ty này làm ăn được ra phết, hóa ra khối kẻ quan tâm đến danh tiếng của mình. Có vẻ như danh tiếng như áo quần, không mặc không được.
K. đi làm được một tuần thì gã trông không ra gã nữa. Người cứ héo rũ như cái cây không được tưới nước. Mắt lúc nào cũng trĩu nặng. Dần dần gã cũng quen. Nhưng điều gã không thể chịu đựng được lại ở chỗ khác. Có những đơn vị bị tần số chê rất lớn nhưng ngày này qua tháng khác tuy vẫn nhận được báo cáo đều đặn nhưng họ không hề sửa đổi, tần số chê vẫn giữ nguyên. Có những đơn vị được khen nhiều quá, lời khen lại quá sống sượng khiến gã thấy ngượng thay cho họ. Giá như gã cứ làm việc và ít suy nghĩ đi thì chắc là không sao, đằng này kết quả khảo sát cứ ám gã hàng ngày hàng đêm, khiến gã lần nữa lại nổi cơn hâm, lại… bỏ việc.
Thế rồi K. gặp cái công ty gã đang làm này. Khó có thể nói K. mất bao nhiêu công sức mới được nhận vào làm việc.
Tên nhân sự còn trẻ nhìn K. như nhìn khủng long, lật đi lật lại hồ sơ xin việc của gã.
– Sao… “anh”… đã nhiều tuổi rồi mà còn đi xin việc…?
Già rồi mà còn đi xin việc, ắt là người “có vấn đề”. Rất đúng, gã gật gù.
– Vì tôi muốn có mức lương cao hơn, ở viện khó sống quá anh ơi…
A a, thông cảm được, anh nhân sự gật gù. Đưa cho gã một tập tài liệu dày, bảo đọc đi, giới thiệu về công ty đấy, và các nội quy phải theo.
Khốn khổ, lúc đi đến đây lại quên mất kính ở nhà. K. giơ tập giấy lên, nhưng có đọc được chữ nào! Những dòng chữ như những dòng kiến, nhảy múa như trong đêm dài Trung cổ. Gã chỉ xem được hình ảnh, mà cũng nhòe nhoẹt.
Anh nhân sự có vẻ hài lòng khi thấy gã đọc rất nhanh. Từng tờ lật qua hẳn hoi. Chứng tỏ trình độ khá cao.
Bắt đầu tiết mục phỏng vấn.
Sức khỏe? Rất tốt. (Đau dạ dày, mỡ máu, sỏi mật thì có ma nào biết được.) Ngoại ngữ? Đọc, dịch xuôi dịch ngược, giao tiếp thoải mái, anh nghiên cứu viên nào mà chẳng thế! Tốt. Khả năng viết lách? Tuyệt vời, đã từng viết báo cáo khoa học, trình bày báo cáo trước hội thảo hàng trăm người. Tốt. Bằng cấp? Đây, khối bằng, xịn cả. Tốt. Thế nhưng…
Cái chữ “thế nhưng” chết tiệt. Hỏi cái gì có cái đó, “thế nhưng” là vứt đi hết. Gã phải làm lại hồ sơ, bổ sung cái này cái khác, chứng thực nọ kia mất bao thời gian. Vậy mà gã đã can đảm và kiên nhẫn làm bằng hết. Thậm chí lại còn mò ra cả số điện thoại và địa chỉ nhà anh nhân sự kia. Năn nỉ và quà cáp, đó là những cái mà gã rất ghét, nhưng ghét thì chết, còn biếu chai rượu ngoại tuy ngượng nhưng không chết.
Vậy mà quả chùy lại gõ vào đầu gã. Mọi thứ đều đã OK, đến tiết mục đồng phục thì K. nhăn nhó mặt mày. Nó có hết trong điều lệ công ty, nhưng khốn nỗi quên kính nên có đọc được gì đâu! Nếu đọc được, chắc hẳn gã đã quay đầu đi ra.
Vậy là, thoát khỏi cái cảnh dậy từ 4 giờ sáng chuẩn bị đi làm, nay lại lâm vào cảnh khoác một bộ đồng phục nhàm chán với một cái cà vạt khủng khiếp. Và, cái câu hỏi tồn tại hay không tồn tại cứ luẩn quẩn trong đầu suốt tuần đi làm đầu tiên. Gã chỉ muốn bỏ việc, luôn luôn khó chịu vì có cảm giác nhân viên như những con gián đang bò lổm ngổm trong văn phòng, và bản thân mình thì cựa quậy suốt ngày trong cái lốt ấy. Nhưng lại không thể bỏ việc, vì bao công lao mới xin được vào đây.
K. già sọm đi trông thấy. Buổi tối, trông thấy hai đứa con chí chóe giành nhau trong bữa cơm, rồi chúng đắm đuối trong ánh đèn bàn học bài, gã lại tự nhủ không thể bỏ việc. Nhưng sâu thẳm trong lòng là một nỗi sợ. Đến đêm nó mới dâng lên. Mất việc, thật đáng sợ. Không có tiền. Sẽ đứng đường, chờ và chờ. Còn nữa, tuổi già, nỗi cô đơn, bệnh tật và không tiền bạc, đó là mấy con ngoáo ộp luôn luôn thò đầu ra nhìn gã. Đôi khi gã tưởng tượng đến cảnh già ngồi một mình buồn bã nhìn qua cửa sổ và thiếu thốn đủ thứ.
Hôm sau, trong bộ đồng phục nghiêm chỉnh, trước khi vào công ty, K. rẽ qua ông bán vé số ở gần đó, mua hẳn một bộ. Mua một cách thờ ơ. Hồi hộp mất mấy hôm. Không trúng bất cứ số nào, nhưng bù lại là được sống trong hy vọng. Rồi dần dần, gã không còn thấy bộ đồng phục là cứng nhắc nữa, cũng không thấy lũ đồng nghiệp giống gián nữa.
Duy nhất chỉ còn cái cà vạt vẫn làm K. khó chịu. Cái khó chịu không dứt ra được. Thỉnh thoảng gã lại thò tay nới cà vạt ra thật rộng, mắt không quên liếc xem cái bọn Tổ kiểm tra tác phong văn phòng có xuất hiện hay không. Cái lũ đi dòm cổ và giày nhân viên. Vô phúc bị tóm thì tháng đó bị trừ lương. Đã có lúc bức bối quá, K. chạy vội vào nhà vệ sinh, thấy trong đó một lũ đang ngồi vắt vẻo trên thành bàn rửa mặt như một lũ khỉ, đứa nào đứa ấy chân trần vung vẩy, giày vứt la liệt dưới đất, nhìn gã cởi phăng cà vạt với con mắt đồng lõa.
Có lẽ Quang Minh, phát thanh viên đài truyền hình là cứu tinh của gã. Khi gã đang chán đến độ muốn bỏ việc lần nữa, một tối xem truyền hình, gã đã nhảy dựng lên sung sướng vì trông thấy trên màn hình nhỏ anh Quang Minh đẹp trai đeo cà vạt tím! Trông được đấy chứ! Trong lòng gã reo lên. Và trong đầu gã nảy ra ý đồ đi lùng mua cho mình một cái cà vạt tím thật ưng ý. Khi đó thì không còn phải lo sợ gì nữa, vĩnh biệt những ngày ngọ ngoạy không yên. Nếu có cà vạt tím như của Quang Minh, chí ít mình cũng không trở thành con gián…
Và K. đã mở chiến dịch đi tìm mua cà vạt tím như một chuyến truy tầm kho báu.
Vậy là, K. tổng kết, mình đã tìm ở con phố chuyên quần áo, tìm ở những con phố chẳng ai nghĩ ra, với ý nghĩ ở một cửa hàng nào đó vào một lúc nào đó ắt phải có cái cần tìm. Nếu chưa có, rồi sẽ có. Thế mà không có. Thế mới lạ.
Thằng cà vạt đến bây giờ vẫn lẽo đẽo đi theo gã trên từng bước chân, trốn gã, có lúc nhảy lên làm chủ gã.
Và giờ K. quyết định đi tìm tiếp, tìm ở phố Hàng Gai, Hàng Đào.
Gã đi qua những ngôi nhà nửa cổ nửa kim, vào những cửa hiệu có hơi thở cổ cổ nhưng lại thắp đèn LED ánh sáng lạnh đến rùng mình, lật tung những mớ cà vạt ngoại hay cà vạt lụa tơ tằm rất có tính dân tộc, cũng không có.
Chẳng biết có gì xui khiến mà K. lại trở lại con phố đầy cửa hàng ban đầu, nơi đầu đường có những người đứng chờ việc. Gã đứng bên này đường hút thuốc, nhìn sang bên kia đường, tưởng tượng đến một lúc nào đó sẽ có một gã tên là K. đang đứng lẫn trong đám người ấy.
K. nhìn ông già đẹp lão bán vé số. Ông hôm nay bán được bao nhiêu niềm hy vọng? K. cười khẩy, quyết định sẽ không bao giờ mua vé số nữa. Sẽ chẳng bao giờ trúng, ít nhất là đối với gã. Và chắc hẳn cũng chẳng cần thiết phải đến tận đài truyền hình để hỏi cái gã Quang Minh đẹp trai kia kiếm cà vạt tím ở đâu.
Trong một tâm trạng buồn bã, K. rẽ qua nhà mẹ đẻ. Mẹ gã hỏi:
– Con đã ăn gì chưa? Sao dạo này phờ phạc thế?
Dường như không phải gã năm mươi hai tuổi, mà chỉ mới mười bảy.
– Cà vạt, cà vạt… – K. trả lời.
– Con ạ, – mẹ gã nói – cà vạt, có cũng được, không cũng được. Hôm nay có canh riêu cua, ăn tạm một bát rồi về nhé?
Ở bên cạnh mẹ, thằng cà vạt lỉnh đi, rồi biến mất tăm.
Còn canh riêu cua thì tuyệt vời.
Hơn cà vạt nhiều.
Điên, sao lại ví canh riêu cua với cà vạt?
Hôm sau.
– Yêu cầu ông thắt lại cà vạt! – Đôi mắt nghiêm nghị của anh nhân viên tổ kiểm tra tác phong văn phòng xoáy vào cổ K. khi gã bước chân vào sảnh.
Trong lòng K. có cái gì dâng lên.
K. tháo cà vạt ra khỏi cổ. Bây giờ nó khá nhàu, và màu tím lúc đầu không còn, nó nhờ nhờ.
Gã cầm cà vạt trong tay, nhìn anh nhân viên kia, rồi bất đồ, gã ấn cái cà vạt vào tay anh ta.
Đeo cũng như không đeo, không đeo cũng như đeo, vậy đeo hay không đeo có gì phải nghĩ? Mẹ nói đúng.
Đứng ngay giữa sảnh, K. ngẩn ngơ nhìn vào phía trong nơi chỗ chờ thang máy đang khá đông người, ai cũng cà vạt tím, rồi lại nhìn ra ngoài đường đầy người đi lại.
Gã đàn ông ngồi trước mặt tôi im lặng đã quá lâu. Cốc cà phê đã nguội ngắt.
Tôi sốt ruột:
– Thế nào, cuối cùng thì ông có tìm được cà vạt tím không?
Gã cáu:
– Cà vạt gì? Tại sao lại cà vạt ở đây? Phải nói về canh riêu cua chứ?
Ơ kìa, rõ ràng gã gọi tôi đến uống cà phê, rồi kể chuyện về cà vạt, sau chuyển sang chuyện canh riêu cua, nay lại cáu? Rõ chán.
Tác giả: Tô Hải Vân – Giọng đọc: NSUT. Việt Hùng